Ngành trưởng:
Cụ PHẠM THƯỜNG là con cụ PHẠM THOAN. Cụ Thường sinh năm Kỷ Hợi (1839) niên hiệu Minh Mệnh thứ 20 (Nguyễn Phúc Đáng 1820 – 1840). Sinh thời cụ có đăng cai thờ cúng cụ tổ nghề đóng cối xay tre, nên người làng gọi là cụ Trùm Thường. Cụ mất ngày 14.2 năm Quý Sửu (1913), Duy Tân thứ 7 (Nguyễn Vĩnh San 1907 – 1916), thọ 75 tuổi.
Cụ trùm Thường sinh 5 con trai PHẠM THÚC, PHẠM KIÊN, PHẠM ĐỊNH, PHẠM XUÂN, PHẠM TIÊM
Cụ bà là TRẦN THỊ TỪ LƯƠNG, sinh năm Ất Tỵ (1845), niên hiệu Thiệu Trị thứ 5 (Nguyễn Niên Tông 1841 – 1847). Cụ mất ngày 11.12 năm Kỷ Mùi (1919), niên hiệu Khải Định thứ 4 (Nguyễn Bửu Đảo 1916 – 1925), thọ 75 tuổi.
Ngành thứ 2: Hiện di cư xuống thôn Dương Cước
Ngành thứ 3:
Cụ PHẠM TRÃI là con trưởng cụ PHẠM ROÃN. Cụ Trãi sinh 3 con trai là PHẠM LƠI, PHẠM HOÀN, PHẠM CHI. Cụ Hoàn, cụ Chi không có con nối dõi.
Cụ PHẠM CUỒN là con thứ 2 cụ PHẠM ROÃN.
Cụ PHẠM TRIỀU là con thứ 3 cụ PHẠM ROÃN. Cụ Triều đi lính làm cai nên gọi là Cai Trào. Con trai cụ Cai Trào là PHẠM HỒI, PHẠM QUẾ
Cụ PHẠM TRẠC là con cụ PHẠM ĐỒN. Cụ Trạc làm Khán thủ nên gọi là Khán Trạc, giỗ ngày 9.7 âm lịch.
Con trai cụ Trạc là PHẠM BÌ. Cụ còn sinh 5 người con gái: Cô lớn lấy ông Trần Trưởng. Cô thứ 2 là Phạm Thị Bản lấy ông Vũ Hiệt, giỗ ngày 22.1 âm lịch. Cô thứ 3 là Phạm Thị Xuân lấy ông Đặng Mẫn, sau lấy người ngoại đê (Tiền Hải). Cô thứ 4 lấy ông Hoàng Tịch (Sinh ra Hoàng Báu, mất sớm). Cô thứ 5 là Phạm Thị Sáu, lấy ông Nguyễn Thúy (Nguyễn Nẩy thờ cúng) giỗ ngày 9.7 âm lịch.
Cụ PHẠM CHÍNH là con trai cụ PHẠM ĐÀM. Cụ Chính không có con nối dõi, cụ xã Chính giỗ ngày 15.6 âm lịch
Cụ PHẠM TÃN là con cụ LÝ HƯỚNG.
Cụ sinh năm Mậu Thân (1848) niên hiệu Tự Đức thứ nhất. Cha mất sớm, cụ ở với mẹ và ông bà nội. Thuở nhỏ cụ học chữ Hán, đỗ khóa sinh. Sau đó cụ làm nghề dạy học, học trò cụ khá đông, về sau vẫn còn các cụ Phạm Tuyết, Phạm Giới, Phạm Định…Theo giỗ tết hằng năm. Cụ Tãn có thời gian làm lý trưởng nên gọi là cụ Lý Tãn. Con cháu kiêng tên gọi là cụ Lý Trẻ. Nghề chữa thuốc đau mắt của cha truyền lại vẫn được cụ kế thừa, nghiên cứu sử dụng. Cụ Lý Trẻ mất ngày 17.2 năm Canh Dần (1890) niên hiệu Thành Thái thứ 2 (Nguyễn Bửu Lân 1889 – 1907), thọ 43 tuổi.
Con trai cụ Tãn là PHẠM THIẾN, PHẠM THẮNG. Cụ Thắng mất sớm.
Cụ bà là VŨ THỊ LAN, con gái cụ Vũ Bô (Sự Bô), họ Vũ ngoài (Cụ Hào Khang gọi là cô ruột). Sau khi cụ ông mất, cụ tiếp tục làn nghề chữa bệnh đau mắt. Sinh thời cụ đi chữa ở nhiều nơi rất tín nhiệm. Cụ mất ngày 4.2 âm lịch, thọ 74 tuổi.
Cụ PHẠM NHUYÊN là con nuôi cụ LÝ HƯỚNG
Cụ Nhuyên sinh ra PHẠM HIỀN, PHẠM TUÔN, PHẠM TUỒN. Cụ Tuôn, cụ Tuồn mất sớm. Hai con gái là PHẠM THỊ TƠ lấy ông Lý Yếng ở Văn Hanh, PHẠM THỊ CÒM mất ngày 30.01 âm lịch.
Cụ Nhuyên mất ngày 10.6 âm lịch.
Cụ PHẠM ĐỚM là con cụ PHẠM HỮU
Cụ Đớm sinh ra PHẠM CHIÊM, hai con gái là PHẠM THỊ THU, PHẠM THỊ SEN và ông Mãnh (Không biết tên).
Cụ bà là VŨ THỊ LỚN
Cụ Đớm giỗ ngày 10.1 âm lịch
Cụ PHẠM THÙY là con cả cụ PHẠM CUNG
Cụ PHẠM ÍCH là con thứ cụ PHẠM CUNG
Cụ Thùy và cụ Ích đều không co con nối dõi.
Cụ PHẠM UÝNH là con trưởng cụ PHẠM THÀNH
Cụ Uýnh sinh ra PHẠM THOA, PHẠM ĐANG
Cụ Đang không có con nối dõi.
Cụ Uýnh giỗ ngày 7.4 âm lịch
Cụ bà giỗ ngày 15.4 âm lịch.
Cụ PHẠM TUYẾT là con thứ cụ PHẠM THÀNH
Cụ Tuyết sinh ra PHẠM ĐÀI, PHẠM LÂU
Cụ Tuyết giỗ ngày 15.1 âm lịch
Ngành thứ 4:
Cụ PHẠM KHẢI là con trưởng cụ PHẠM KHOA
Cụ Khải sinh ra PHẠM PHÁC. Cụ Phác không có con nối dõi.
Cụ PHẠM KHÁI là con thứ cụ PHẠM KHOA
Cụ Khái sinh ra PHẠM LIÊN, PHẠM MẠI, PHẠM THOẠI. Cụ Liên và cụ Thoại không có con nối dõi.
Cụ PHẠM CHẾ là con thứ 3 cụ PHẠM KHOA
Cụ Chế sinh ra PHẠM BẤM.
Cụ PHẠM AN là con nuôi cụ PHẠM KHOA
Cụ An sinh ra PHẠM HỶ
Ngành thứ 5:
Cụ PHẠM TRỊNH là con trưởng cụ PHẠM TRÙ
Cụ Trịnh không có con nối dõi.
Cụ PHẠM BỐI là con thứ cụ PHẠM TRÙ.
Cụ Bối không có con nối dõi.
Cụ PHẠM XƯƠNG là con thứ 3 cụ PHẠM TRÙ. Cụ Xương sinh ra PHẠM YẾNG, PHẠM TỊNH
Ngành thứ 6:
Cụ PHẠM NẶC là con trưởng cụ PHẠM VÂY
Cụ Nặc sinh ra PHẠM HỒ, PHẠM BÙI và PHẠM THỊ LÒA mất năm 1942
Cụ PHẠM LỪNG là con thứ cụ PHẠM VÂY. Cụ Lừng không có con nối dõi.