Ngành trưởng:
Ông PHẠM LIỆC là con cụ PHẠM TRIÊM. Ông Liệc sinh năm Đinh Mão (1927). Ông làm ruộng và có mấy năm hăng hái tham gia hoạt động văn nghệ địa phương. Các con ông là PHẠM NGỌC KHUÊ, PHẠM NGỌC TRAI, PHẠM NGỌC ĐẨU, PHẠM VĂN TƯ, PHẠM VĂN HẢI. con gái là PHẠM THỊ TRÒN lấy chồng là Hoàng Quang Uân, con ông Hoàng Ngữ cùng làng.
Bà là NGUYỄN THỊ TỴ là con gái thứ 2 cụ Nguyễn Tạo cùng làng. Bà sinh năm Đinh Mão (1927).
Ông PHẠM HOẠT là con trưởng cụ PHẠM HƯỜNG. Ông Hoạt sinh năm Nhâm Thân (1932). Những năm kháng chiến chống Pháp, ông tham gia công tác thôn đội và một số công việc trong thôn. Ông Hoạt sinh ra PHẠM VĂN BÍNH, PHẠM THỊ TƠ, PHẠM THỊ HUỆ (Huệ lấy Vũ Hưng, con bà Vũ Thị Tiêu cùng làng). Ba người trên là con bà VŨ THỊ QUYẾT. Ông Hoạt còn lấy bà VŨ THỊ HIẾM, sinh ra PHẠM THỊ HUẾ, PHẠM THỊ HUÊ (cô Huế lấy anh Thoại, thôn Văn Hanh, xã Lê Lợi). Bà thứ 3 hiện nay tên là…Sinh ra PHẠM VĂN QUÝ tuổi Giáp Tý (1984).
Ông PHẠM BỘT là con thứ cụ PHẠM HƯỜNG. Ông Bột sinh năm Bính Tý (1936). Ông là người cần kiệm lao động nông nghiệp. Các con ông là PHẠM VĂN LÂN, PHẠM VĂN HIÊN, PHẠM VĂN GIANG, PHẠM VĂN TUÂN, PHẠM VĂN DÂN. Con gái là PHẠM THỊ CỐM.
Bà Bột tên là HOÀNG THỊ TRÂM, con gái lớn cụ Hoàng Lập cùng làng.
Ông PHẠM RẬU là con thứ 3 cụ PHẠM HƯỜNG. Ông Rậu sinh năm Ất Dậu (1945). Ông Rậu có một số năm tham gia công tác Hợp tác xã nông nghiệp ở thôn nhà. Ông Rậu sinh ra PHẠM ĐÌNH TRUNG, PHẠM THỊ THỦY (lấy chồng người thôn Thượng Gia), PHẠM THỊ LIÊN, PHẠM THỊ LÀNH
Bà Rậu tên là…LỤA, người thôn Phú Ân, xã Lê Lợi
Ông PHẠM CHUNG là con cụ PHẠM CAM. Ông Chung sinh năm…Ông có 4 trai, 2 gái: PHẠM VĂN THANH, PHẠM VĂN BÌNH, PHẠM VĂN MINH, PHẠM VĂN KHUYÊN, PHẠM THỊ NGUYỆT, PHẠM THỊ NGA
Bà Chung tên là…
Ông PHẠM NHIỄU là con cụ SỰ THĂNG. Ông Nhiễu sinh năm Tân Dậu (1921). Sinh thời ông Nhiễu làm nghề chạm bạc. Ông sinh ra PHẠM NHIÊU, PHẠM THỊ CHẮT. Thị Chắt sinh năm Đinh Hợi (1947).
Ông Nhiễu mất ngày 22.02 năm Mậu Tý (1948). Bà là ĐẶNG THỊ TẸO sinh năm Kỷ Mùi (1919).
Ông PHẠM RIỆP là con cả cụ PHẠM RUNG. Ông Riệp sinh năm Mậu Dần (1938), có con trai là PHẠM QUỐC BÌNH, các con gái là PHẠM THỊ ĐỰNG, PHẠM THỊ TĨNH, PHẠM THỊ NHUNG. Anh Bình có vợ và 1 con trai là PHẠM GIA KHAM.
Bà Riệp tên là ĐINH THỊ CHIU (dân tộc Tày)
Hiện nay gia đình ông Riệp làm ăn sinh sống ở xã Cát Thịnh, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Ông PHẠM NGHIỆP là con thứ cụ PHAM RUNG. Ông Nghiệp sinh năm…(cùng tuổi anh Nguyện con ông Tuẩn).
Ông mất ngày 8.4 năm Quý Sửu (1973).
Bà là PHẠM THỊ TỴ mất ngày 14.8 năm Đinh Mão (1987).
Ông PHẠM TIỆP là con thứ 3 cụ PHẠM RUNG. Ông Tiệp sinh ngày 28.5 năm Ất Mùi (1951) các con ông là PHẠM VĂN CÔNG…
Bà là Trần Thị Biên sinh năm…Người Nam Sách, Hải Dương. Hiện ở thị trấn Tân Biên, Tây Ninh.
Ông PHẠM TRIỆP là con thứ 4 cụ PHẠM RUNG, sinh ngày 28.5 năm Đinh Dậu (1957). Các con ông Triệp là PHẠM THỊ NGA, PHẠM THỊ TUYẾT, PHẠM THỊ PHƯƠNG.
Bà là VŨ THỊ NHÃ sinh năm Tân Mão (1961), con gái ông Vũ Nhàn, Tả Phụ
Ông PHẠM VĂN ĐÔN là con thứ 5 cụ PHẠM RUNG, sinh ngày 13.2 năm Tân Mão (1961), lấy vợ xã Quang Minh, Vũ Thư, con là PHẠM THẾ HẬU, hiện ở huyện KrongPac, Đăk Lăk.
Ông PHẠM VĂN VANG là con thứ 6 cụ PHẠM RUNG. Ông Vang sinh ngày 11.5 năm Tân Hợi (1971), hiện là giáo viên huyện Cư Mờ Nga, tỉnh Đăk Lăk
Con gái cụ Rung là PHẠM THỊ VUI sinh ngày 30.07 năm Mậu Thân (1968) lấy Đào Văn Tiến, Tiên lãng, Hải Phòng. Hai con là Đào Ngọc Thành, Đào Ngọc Tuân hiện ở Đăk Lawk. PHẠM THỊ TỴ, em gái liền ông Đôn, sinh năm Ất Tỵ (1965), mất 17 tuổi (1987).
Ngành thứ 2: (đời thứ mười lăm) Thiên cư xuống thôn Dương Cước.
Ngành thứ 3: (đời thứ mười lăm)
Ông PHẠM HỘI là con trai cụ PHẠM BỒNG. Ông Hội mất sớm.
Ông PHẠM BƯỞI là con thứ cụ PHẠM BỒNG. Ông Bưởi mất sớm.
Ông PHẠM UỔNG là con trưởng cụ PHẠM KHANH. Ông Uổng mất sớm.
Ông PHẠM THANH CHU là con thứ cụ PHẠM KHANH. Ông Chu sinh ngày 11.05 năm Ất Tỵ (1941). Trong kháng chiến chống Mỹ ông đi bộ đội làm đến đại đội trưởng. Khi xuất ngũ về quê, ông tích cực tham gia công tác địa phương: là Đảng ủy viên ,trưởng ban kiểm soát Hợp tác xã, trưởng Ban chăn nuôi, phó công an xã.
Hiện nay ông Chu là trưởng ngành thứ 3 của họ nhà. Con trai ông là PHẠM THANH HẢI. Các con gái là PHẠM THỊ MẾN, sinh ngày 25.08 năm Đinh Mùi (1967), lấy chồng là Phạm Văn Điện thôn Phú Ân, xã Lê Lợi. PHẠM THỊ YẾN sinh ngày 23.08 năm Tân Hợi (1971), Thị Yến đi Liên Xô từ năm 1989. PHẠM THỊ LAN ANH sinh ngày 02.06 năm Kỷ Mùi (1979), đã học trường Đại học dân lập Phương Đông, Hà Nội.
Bà Chu là TẠ THỊ SẾNH, người thông Hữu Bộc. Bà sinh ngày 12.03 năm Ất Dậu (1945). Bà từng công tác tại sở Ngoại thương tỉnh, rồi về làm phó chủ nhiệm Hợ tác xã Việt Hồng, làm phó hội trưởng Hội phụ nữ xã suốt 15 năm liền.
Ông PHẠM VĂN HỒNG là con thứ 3 cụ PHẠM KHANH. Ông Hồng gia nhập quân đội những năm kháng chiến chống Mỹ, chức vụ tiểu đội trưởng. Ông Hồng anh dũng hy sinh tại chiến trường B ngày 11.03 năm Tân Hợi (1971).
Ông PHẠM VĂN NGÂU là con thứ 4 cụ PHẠM KHANH. Ông Ngâu sinh năm Nhâm Thìn (1952). Ông sinh ra PHẠM VĂN LONG, PHẠM VĂN VƯƠNG, PHẠM VĂN VANG. Con gái là PHẠM THỊ HƯƠNG, sinh năm Quý Sửu (1973), đã xây dựng gia đình riêng.
Bà Ngâu tên là PHẠM THỊ QUỲNH, sinh năm Tân Sửu (1961)
Hiện nay gia đình ông Ngâu làm ăn sinh sống ở xóm 7, thôn Thiện Tường, xã Nam Thịnh, huyện Tiền Hải.
Ông PHẠM VƯU là con trường cụ PHẠM NHUNG. Ông Vưu sinh năm Quý Hợi (1923). Sinh thời ông Vưu làm nghề may. Ông sinh ra PHẠM HUY, PHẠM NĂNG, PHẠM KHẢI, PHẠM BÍCH, PHẠM CHÂU, cùng các con gái là PHẠM THỊ DẦN, lấy chồng tên là Thường, quê ở Hà Nam. PHẠM THỊ TÝ sinh năm Bính Thân (1956), lấy chồng là Vũ Văn Mão (con ông Bạ cùng làng), sinh ra Vũ Thị Tâm, Vũ Văn Phòng. PHẠM THỊ THẤM, chồng là Phúc sinh 2 con trai. PHẠM THỊ MÂY, chồng là Nhật, sinh 1 trai, 1 gái
Bà chính thất của ông Vưu là NGUYỄN THỊ CHUỘT, con gái lớn cụ Nhang Trứ, họ Nguyễn cùng làng.
Bà mất ngày…
Bà kế thất là…
Ông PHẠM SOÁI là con thứ 2 cụ PHẠM NHUNG. Ông Soái sinh năm Nhâm Thân (1932). Sinh thời ông làm nghề đóng cối xay tre. Ông sinh ra PHẠM HÒA, PHẠM NHÃ, PHẠM PHƯƠNG. Con gái là PHẠM THỊ MÙI, PHẠM THỊ DUYÊN. Thị Mùi lấy Vũ Thuấn con ông Nữu cùng làng, Thị Duyên lấy Đặng Văn Trúc con ông Thắc cùng làng.
Ông Soái mất ngày 23.6 năm Bính Tý (1996).
Bà Soái là VŨ THỊ CÔI sinh năm Canh Ngọ (1930)
Bà PHẠM THỊ TƯƠI là con cụ PHẠM SANH. Bà tươi có con tên là…
Ông PHẠM VĂN KHOA là con trưởng cụ PHẠM BI. Ông Khoa sinh năm Tân Sửu (1961). Ông sinh ra PHẠM KHÁNH và 1 con gái là PHẠM THỊ LINH.
Bà Khoa là PHẠM THỊ QUY quê ở xã…Huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Hiện nay gia đình ông Khoa đi xây dựng kinh tế mới ở huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
Ông PHẠM VĂN KHƯƠNG là con thứ 3 cụ PHẠM BI. Ông Khương sinh năm Mậu Thân (1968), ông Khương sinh ra PHẠM DUY.
Bà Khương là NGUYỄN THỊ HỒNG, con gái ông Nguyễn Thới cùng làng. Hiện nay gia đình làm ăn ở Bảo Lộc, Lâm Đồng.
Ông PHẠM VĂN KHÁNG là con thứ 4 cụ PHẠM BI. Ông Kháng sinh năm Tân Hợi (1971), vợ là NGUYỄN THỊ TƯƠI sinh năm GIÁP DẦN (1974).
Ông PHẠM BỔNG (còn có tên là PHẠM CHẮT, PHẠM SINH). Ông Bổng sinh năm Quý Hợi (1923, Khải Định thứ 8). Ông là con trưởng cụ PHẠM RIẾN. Ông sinh được 10 ngày thì thân mẫu bị bệnh động kinh và mất sữa. Bà nội phải nuôi nấng. Hồi nhỏ ông bà nội cho học chữ Quốc ngữ và đõ sơ học yếu lược, lớn lên ông làm nghề chạm bạc. Ông sớm được giác ngộ cách mạng, thường được cấp trên giao công tác tuyên truyền vận động cách mạng, rải truyền đơn. Năm 1944 ông đang hoạt động bí mật ở Hà Nội thì bị lên bắp chuối. Ông trốn về quê để chữa, suýt nữa bị bắt. Cách mạng tháng 8 năm 1945, ông tham gia giành chính quyền ở xã. Sau đó ông lại tiếp tục lên Hà Nội hoạt động trong phong trào công nhân. Ngày 17.05 năm Bính Tuất (1946), ông đột ngột bị bệnh và mất tại Hà Nội.
Ông PHẠM XƯỚNG là con thứ cụ PHẠM RIẾN. Ông sinh năm Kỷ Tỵ (1929). Sau khi đỗ bằng sơ học yếu lược, ông được cha dạy cho nghề may. Đầu năm Ất Dậu (1945), ông cùng ông nội và em trai là Phạm Mùi đi theo gia đình chú và người anh cả lên thị xã Hòa Bình mở cửa hàng sản xuất và bán đồ trang sức bằng bạc. Được mấy tháng, ông bị bệnh sốt rét và mất tại thị xã Hòa Bình ngày 11.5 năm Ất Dậu (1945).
Ông PHẠM MÙI là con trai thứ 3 cụ PHẠM RIẾN. Ông sinh năm Tân Mùi (1931). Thuở nhỏ được ong nội dạy học chữ Hán, sau đó học chữ quốc ngữ ở trường làng. Ông là học trò thông minh, học giỏi. Đầu năm Ất Dậu (1945), ông theo gia đình chú ruột lên thị xã Hòa Bình. Sau mấy tháng, ông về quê được cha dạy cho nghề may. Ông cũng như ông nội và cha làm nghề may có tín nhiệm với bà con trong vùng. Bên cạnh nghề may, ông tích cực tham gia công tác thông tin tuyên truyền, hoạt động 12 năm trong đoàn thanh niên cứu quốc, từ chấp hành đoàn xã, thường vụ, lên bí thư đoàn xã và ủy viên Ban phụ trách thiếu nhi huyện Kiến Xương.
Ngày 03.03.1962, ông được kết nạp vào Đảng lao động Việt Nam. Có mấy năm ông làm trưởng ban văn hóa xã. Khi có chính sách Hợp tác hóa, ông đã đứng lên xây dựng Hợp tác xã thủ công may mặc, trực tiếp làm chủ nhiệm, lấy tên là Hợp tác xã Phương Đông. Năm 1975 ông chuyển lên thành phố Việt Trì, tỉnh Vĩnh Phú, phụ trách HTX thủ công của Thành phố, rồi tham gia cán bộ phường Tiên Cát. Năm 2000, gia đình ông chuyển về nghỉ hưu ở Hà Nội.
Ông Mùi sinh 6 con trai: PHẠM NHẬT NAM, PHẠM NHẬT TỈNH, PHẠM NHẬT THỊNH, PHẠM VĂN QUÂN, PHẠM VĂN HIẾU, PHẠM NHẬT THÀNH và 3 con gái: PHẠM THỊ LOAN, sinh ngày 28.01.1971 (mùng 1 tết Tân Hợi), Thị Loan lấy chồng là Nguyễn Hồng Tư, quê xã Điệp Nông, huyện Hưng Hà, Thái Bình. Hiện nay anh Tư, chị Loan cùng 2 con trai làm ăn ở Cộng hòa Liên bang Đức. Con trai lớn là Kenny (1995) và Nguyễn Huy Hoàng. Con gái thứ 2 ông Mùi là PHẠM THỊ SỬU, sinh ngày 26.06.1973 Con gái thứ 3 là PHẠM THỊ MAI, sinh ngày 10.02.1975.
Bà Mùi tên là NGUYỄN THỊ MƠ, sinh ngày 15.06 năm Ất Hợi (1935), người thôn Thượng Gia cùng xã.
Ông PHẠM ĐỨC DUẬT là con trai thứ 4 cụ PHẠM RIẾN. Ông sinh năm Bính Tý (1936), tốt nghiệp Trung cấp lý luận sân khấu năm 1964, tốt nghiệp Đại học Hán Học năm 1968, tốt nghiệp Cao học Hán Nôm năm 1976. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, kết nạp ngày 24.03.1967 tại chi bộ Viện Văn học.
Ông tham gia công tác từ tháng 9.1960: Dạy cấp 2 ở huyện Đông Anh 1 năm, công tác ở ban nghiên cứu Tuồng Trung ương 1 năm, công tác nghiên cứu văn học Việt Nam tại Viện Văn học 11 năm (1965 – 1976), công tác nghiên cứu văn hóa truyền thống tại Sở Văn hóa thông tin Thái Bình 10 năm (1976 – 1986), công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình 14 năm (1986 – 1999), làm công tác nghiên cứu Văn hóa Dân gian và công tác quản lý qua các chức vụ: Phó chủ tịch Hội, quyền chủ tịch hội, bí thư chi bộ, bí thư Đảng đoàn, Tổng biên tập tạp chí Văn Nghệ Thái Bình, đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Bình khóa 11 (1989 – 1994), ủy viên ủy ban mặt trận tổ quốc tỉnh Thái Bình khóa 12, 13, hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, hội viên Hội Khoa học lịch sử Việt Nam.
Các tác phẩm nghiên cứu đã xuất bản: Thơ Văn Lý Trần tập 3, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1977. Lê Quý Đôn, Nhà bác học Việt Nam Thế kỷ 18, Sở Văn hóa thông tin Thái Bình, 1978. Văn học Dân gian Thái Bình tập 1, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1982. Chùa Keo, Sở Văn hóa thông tin Thái Bình, 1984. Danh nhân Thái Bình tập 1, Sở Văn hóa thông tin Thái Bình, 1986. Viên ngọc thần kỳ, Hội Văn học nghệ thuật Thái Bình, 1987. Tổng tập Văn học Việt Nam tập 3a, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1991. Phạm Thận Duật toàn tập, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2000. Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, tác gia, tác phẩm, Sở Văn hóa thông tin Hà Tây, 2000. 3000 câu đối Hán Nôm. 5000 câu đối Hán Nôm. Phương đình Nguyễn Văn Siêu. Văn học Dân gian Thái Bình toàn tập. Sen nở dưới Phật đài…Và nhiều bài đăng trên các tạp chí nghiên cứu, các kỷ yếu hội thảo về Nguyễn Quang Bích, Ngô Quang Đoan, vè, chèo cổ, thông báo Hán Nôm học. Một số bài được phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam, một số bài đă ng trên các báo chí Trung ương và địa phương.
Ông đã được tặng thưởng: Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng 3, giải thưởng văn học Lê Quý Đôn (1980 – 1985), Bằng lao động sáng tạo của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Huy chương Vì sự nghiệp Văn hóa, Huy chương vì sự nghiệp Văn học nghệ thuật, Huy chương vì sự nghiệp Văn nghệ dân gian, Huy chương vì sự nghiệp Báo chí.
Ông nghỉ hưu năm 1999 và chuyển lên Hà Nội sinh sống cùng gia đình, tiếp tục đóng góp cho công tác Nghiên cứu văn học.
Bà là VŨ THỊ THÚY MƠ, sinh năm Quý Mùi (1943), người thôn Thuyền Định, xã Trà Giang, cùng huyện. Bà là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tốt nghiệp Đại học sư phạm Hà Nội 1, làm hiệu phó rồi hiệu trưởng các trường cấp 2: Quốc Tuấn, Trà Giang, Hồng Thái, Nam Cao, Phú Xuân ở Thái Bình. Từ năm 1977 bà về làm công tác quản lý chuyên môn ở Sở Giáo dục tỉnh Thái Bình. Năm 1993 bà nghỉ hưu. Bà được tặng thưởng Huy chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, chiến sỹ thi đua cấp tỉnh năm 1971, Huy chương vì sự nghiệp Giáo dục…Bà mất ngày 23.05 năm Mậu Tuất, tức ngày 06.07.2020 tại Hà Nội, hưởng thọ 76 tuổi.
Ông bà Duật có 2 con, 1 trai, 1 gái: PHẠM HUY DU, PHẠM VÂN DUNG. Cô Vân Dung sinh năm Bính Thìn (01.02.1977), tốt nghiệp xuất sắc khoa Văn học trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Hiện là cán bộ giảng dạy của trường, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tham gia biên soạn các đầu sách: Tinh tuyển Thơ văn Hán Nôm cho trường Đại học Tổng hợp Huế, 1999. Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, thông báo Hán Nôm học, đã bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ khoa học Ngữ văn.
Ông PHẠM TRỌNG ĐIỀM là con trai thứ 5 cụ PHẠM RIẾN. Ông sinh năm Canh Thìn (1940), làm ruộng, đi bộ đội năm 1959, đóng quân ở Quán Toan, Cát Bà (Hải Phòng) rồi đi chiến đấu ở chiến trường B (Quân khu 9), chức vụ chính trị viên đại đội, hàm trung úy, được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, xuất ngũ năm 1977 về làm nông nghiệp ở quê. Ông Điềm mất năm 2012, thọ 73 tuổi.
Bà Điềm là PHẠM THỊ QUÝ sinh năm Quý Mùi (1943) người thôn Phú Ân, xã Lê Lợi cùng huyện, làm ruộng ở quê.
Ông bà Điềm có 5 con: 2 trai, 3 gái: PHẠM VĂN ĐẠM, PHẠM VĂN TRÁNG, PHẠM THỊ ĐIỆP (sinh năm 1977, bị ảnh hưởng chất độc da cam, đã mất năm 2005), PHẠM THỊ YẾN sinh năm 1979 làm thủ công chạm bạc ở quê, đã lấy chồng tên là Giám, người Hưng Hà, có 1 con trai và 3 con gái, PHẠM THỊ LAN ANH, sinh năm 1981, làm ruộng, buôn bán ở quê, lấy chồng là Hải thôn Phú Ân, xã Lê Lợi, có 2 con gái, 1 con trai.
Ông PHẠM TRỌNG BẢO là con thứ 6 cụ PHẠM RIẾN, sinh năm Ất Dậu (1945), tốt nghiệp Đại học hợp khoa Triết học, gia nhập quân đội năm 1964, tham gia chiến đấu ở Quảng Trị năm 1968, chức vụ thiếu tá, Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, huân chương kháng chiến Chống Mỹ cứu nước hạng nhất, xuất ngũ năm 1991 sống ở quê. Đến năm 2014 gia đình chuyển ra Hải Phòng sinh sống.
Bà Bảo là NGUYỄN THỊ LỘC, quê gốc xã Tán Thuật, cùng huyện, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội về làm giáo viên dạy hóa trường cấp 3 Nam Đông Quan, sau chuyển về trường cấp 3 Bắc Kiến Xương.
Ông bà Bảo sinh 2 con gái: PHẠM THỊ THU HOÀI, sinh năm 1978, học giỏi, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội khoa Toán tin, sau học cao học, Thạc sỹ, hiện giảng dạy tại trường Đại học Hàng Hải Hải Phòng. PHẠM THỊ THU GIANG, sinh năm 1981, tốt nghiệp Đại học Ngoại thương Hà Nội, hiện làm việc tại Công ty In dịch vụ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Ông PHẠM VĂN THIỀM là con trưởng cụ PHẠM DỞN, ông Thiềm sinh năm Kỷ Mão (1939). Năm 1945 theo cha mẹ lên làm ăn ở thị xã Hòa Bình. Mấy tháng sau gia đình trở về quê, ông bị ốm ngã nước, mất năm 1946.
Ông PHẠM VĂN QUYẾT là con thứ cụ PHẠM DỞN. Ông sinh năm Bính Tuất (1946), còn nhỏ học ở quê, tốt nghiệp cấp 2 rồi thi vào trường Trung cấp Lao động tiền lương. Sau ra công tác lao động tiền lương thuộc Xí nghiệp Dược phẩm tỉnh Bắc Thái (nay là tỉnh Thái Nguyên)
Bà Quyết tên là HÀ THỊ HỒNG CẤP, sinh năm………….Người dân tộc Tày. Hồi nhỏ bà học chữ quốc ngữ, tốt nghiệp cấp 2 rồi học trường Trung cấp Tài chính 3 năm. Sau ra công tác lao động tiền lương thuộc xí nghiệp Dược phẩm tỉnh Bắc Thái (nay là tỉnh Thái Nguyên). Bà Cấp mất năm 2020.
Ông bà Quyết sinh 1 trai, 2 gái: PHẠM THÁI DƯƠNG, sinh năm 1973, PHẠM THỊ HỒNG THU, sinh năm 1971, lấy chồng tên là Thức, PHẠM THỊ PHƯƠNG sinh năm…
Ông PHẠM ANH TUẤN là con thứ 3 cụ PHẠM DỞN. Ông sinh năm Giáp Ngọ (1954), còn nhỏ học ở quê, tốt nghiệp cấp 2. Năm 17 tuổi ông tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Mỹ vào tháng 08.1971. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 02.1974, chức vụ thượng sỹ, tiểu đội trưởng. Ông đã anh dũng hy sinh tại chiến trường…ngày 07.09.1974, được truy tặng Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng 3.
Ông PHẠM CHIỂU là con cụ PHẠM HẢN. Ông Chiểu sinh năm Nhâm Thân (1932). Những năm kháng chiến chống Pháp, ông tham gia dân quân du kích ở thôn. Sau hòa bình ông làm công nhân ở Hải Phòng, Quảng Ninh. Bà là ĐẶNG THỊ NẤM, con gái thứ 3 cụ Đặng Trắc cùng làng. Ông bà Chiểu sinh được 2 trai, 2 gái: PHẠM THẾ TRUYỀN, PHẠM NGỌC ĐIỆP, PHẠM THỊ NGUYỆT lấy Đỗ Tiến Dũng (con ông Đỗ Phát người Diêm Điền, Thái Thụy, làm rể cụ Vũ Viết). Cô Nguyệt sinh được 2 trai là Đỗ Văn Thắng, Đỗ Ngọc Sơn. Người con gái thứ 2 của ông bà Chiểu là PHẠM THỊ HỒNG.
Ông Chiểu mất ngày 16.7 năm Đinh Sửu (1997).
Ông PHẠM TẦN là con trưởng cụ PHẠM SỞ. Ông Tần sinh năm…Làm công nhân ở nhà máy Hóa chất thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
Bà Tần là LÊ THỊ XUÂN TRƯỜNG quê ở Phú Thọ, làm cán bộ y tế của nhà máy Hóa chất Việt Trì. Ông bà Tần sinh được 3 con trai: PHẠM LÊ SƠN, PHẠM THÁI HÀ, PHẠM DUY ĐÔNG.
Ông Tần giỗ ngày 26.3 âm lịch
Ông PHẠM ÁNH là con thứ 2 cụ PHẠM SỞ. Ông Ánh sinh năm Ất Dậu (1945).
Bà Ánh là Lê Thị Gái người thôn Phú Ân , xã Lê Lợi. Ông bà Ánh làm ruộng ở quê, có con trai là PHẠM NGỌC TOÀN.
Ông PHẠM MAI là con thứ 3 cụ PHẠM SỞ. Ông Mai sinh năm Tân Sửu (1961).
Bà Mai là VŨ THỊ THÌN, sinh năm Giáp Thìn (1964) là con gái cụ Vũ Phiếm cùng làng. Ông bà Mai làm ruộng ở quê, sinh ra PHẠM THỊ NGA, PHẠM THỊ LÊ, PHẠM THỊ HẰNG.
Ông PHẠM QUANG TÙNG là con cả cụ PHẠM ĐIỂN. Ông Tùng tham gia quân đội trong những năm cả nước chống Mỹ và hiện là thương binh. Sau khi ở chiến trường ra ông được chuyển ngành về làm công tác văn thư ở cơ quan tỉnh nhà.
Bà Tùng tên là Vi, người làng Cao Mại, xã Quang Trung cùng huyện. Ông bà Tùng sinh được 1 trai là PHẠM HỒNG THÁI, 1 gái là PHẠM THỊ BÌNH.
Ông PHẠM NGỌC BÔN là con thứ 2 cụ PHẠM ĐIỂN.
Bà Bôn là VŨ THỊ VUI, con cụ Vũ Ngận cùng làng. Ông bà Bôn sinh 2 con trai là PHẠM BÁI, PHẠM CÔNG. Hiện nay gia đình vào làm ăn ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông PHẠM VĂN CÔN là con thứ 3 cụ PHẠM ĐIỂN.
Bà Côn là Đỗ Thị Thái, người thôn Thượng Hòa cùng xã. Ông bà Côn sinh được 1 trai, 1 gái: PHẠM HÙNG, PHẠM THỊ THANH. Hiện nay gia đình vào làm ăn ở Thành phố Hồ Chí Minh
Ông PHẠM VĂN HUỆ là con thứ 4 cụ PHẠM ĐIỂN.
Bà Huệ tên là Loan người xã Lê Lợi cùng huyện. Ông bà Huệ có 2 con gái là PHẠM THỊ THU, PHẠM THỊ TÂM, gia đình làm ăn ở quê nhà.
Ông PHẠM VĂN NIỀM là con cả cụ PHẠM NIÊM.
Ông bà Niềm sinh được 5 người con: 2 gái, 3 trai. Hiện nay gia đình làm ăn ở Quảng Ninh.
Ông PHẠM VĂN XEM là con thứ 2 cụ PHẠM NIÊM. Bà Xem tên là…Ông bà Xem sinh được 2 con gái: PHẠM THỊ HÓA, PHẠM THỊ HUYỀN
Ông PHẠM VĂN SẢO là con trai lớn cụ PHẠM VĂN SẮC. Ông bà Sảo sinh được 3 người con: PHẠM VĂN TUẤN, PHẠM THỊ KIM OANH, PHẠM THỊ HỒNG NGỌC
Ông PHẠM VĂN TƯ là con thứ 2 cụ PHẠM VĂN SẮC. Ông bà Tư có 1 con gái là PHẠM THỊ VÂN.
Ông PHẠM CHÂM là con cả cụ PHẠM XOANG.
Ông Châm tuổi Đinh Mão (1927). Bà Châm tên là VŨ THỊ HON, sinh năm Quý Dậu (1933), người thôn Đắc Chúng, xã Quốc Tuấn cùng huyện. Ông bà Châm sinh được 3 gái, 2 trai. Con gái lớn là PHẠM THỊ SEN hy sinh ngày 14.04 trong kháng chiến chống Mỹ. Con thứ 2 là PHẠM THỊ TUẤT, sinh ngày 15.10.1958 (Mậu Tuất). Cô Tuất lấy chồng tên là Thu, đã có 2 con. Người thứ 3 là PHẠM XUÂN DU. Người thứ 4 là PHẠM THỊ TUYẾN, lấy chống tên là Trạm đã có 2 con. Người thứ 5 là PHẠM ĐỨC DIỆU.
Bà Châm giỗ ngày 29.8 âm lịch.
Ông PHẠM CHÂN là con thứ 2 cụ PHẠM XOANG. Ông Chân sinh năm Ất Hợi (1935).
Bà Chân là DƯƠNG THỊ CÕN, con cụ Biểu ở Gia Mỹ cùng xã. Ông bà Chân có 4 con gái và 1 con trai: PHẠM THỊ TRÚC, PHẠM THỊ PHƯƠNG, PHẠM THỊ TRỌNG, PHẠM TRỊNH, PHẠM THỊ CHÂU sinh năm Ất Sửu (1985). Hiện nay cô Trúc ở Văn Chấn, Nghĩa Lộ, cô Trọng ở miền Nam, cô Châu ở với cô Tuyến con ông Châm.
Ông PHẠM QUANG là con trai thứ 3 cụ PHẠM XOANG. Ông Quang sinh năm Tân Mão (1951). Bà Quang là ĐẶNG THỊ THÊU, sinh năm Giáp Ngọ (1954), người thôn Văn Hanh xã Lê Lợi, cùng huyện. Ông bà Quang sinh được 4 người con, 3 gái, 1 trai: PHẠM THỊ XUYÊN sinh năm Kỷ Mùi (1979) lấy chồng là Đặng Doanh con ông Dũng cùng làng, đã có 1 cháu gái. Con gái thứ 2 là PHẠM THỊ LUYẾN, sinh năm Tân Dậu (1981), con thứ 3 là PHẠM TUYÊN, sinh năm Ất Sửu (1985), con thứ 4 là PHẠM THỊ TUYỀN sinh năm Canh Ngọ (1990).
Ông PHẠM VĂN TẠC là con cụ PHẠM LÊU. Ông Tạc sinh năm Quý Mùi (1943). Ông tham gia quân đội nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, hy sinh ngày 5.2.1968 tại Quảng Ngãi.
Bà Tạc tên là PHẠM THỊ CHẮT, ông bà Tạc có 1 con gái là PHẠM THỊ NHẠN, sinh năm Nhâm Dần (1962). Cô Nhạn lấy chồng là Vũ Bội con ông Vũ Tiếp cùng làng.
Ông PHẠM VĂN ĐÍNH là con cả cụ PHẠM BÍNH. Hiện nay gia đình ở xã An Bài huyện Quỳnh Phụ.
Ông PHẠM VĂN DỤC là con thứ cụ PHẠM BÍNH. Hiện nay gia đình ở xã An Bài huyện Quỳnh Phụ.
Ông PHẠM VĂN TỴ là con thứ 3 cụ PHẠM BÍNH. Hiện nay gia đình ở xã An Bài huyện Quỳnh Phụ.
Ông PHẠM VĂN ĐỎ là con thứ 5 cụ PHẠM BÍNH. Hiện nay gia đình ở xã An Bài huyện Quỳnh Phụ.
Ông PHẠM VĂN BÔN là con cả cụ PHẠM BỐN. Hiện nay gia đình ở xã An Bài huyện Quỳnh Phụ.
Ông PHẠM VĂN THÍA là con thứ 2 cụ PHẠM BỐN. Hiện nay gia đình ở xã An Bài huyện Quỳnh Phụ.
Ông PHẠM VĂN BÌNH là con thứ 3 cụ PHẠM BỐN. Hiện nay gia đình ở xã An Bài huyện Quỳnh Phụ.
Ông PHẠM VĂN TĨNH là con thứ 4 cụ PHẠM BỐN. Hiện nay gia đình ở xã An Bài huyện Quỳnh Phụ.
Ông PHẠM VĂN XƯƠNG là con thứ 5 cụ PHẠM BỐN. Hiện nay gia đình ở xã An Bài huyện Quỳnh Phụ.
Ông PHẠM VĂN TÀI là con cụ PHẠM TẸO. Hiện nay gia đình ở xã An Bài huyện Quỳnh Phụ.
Ngành thứ 4:(đời thứ 15)
Đến cụ PHẠM PHẠC hiện không có tin tức gì.
Ngành thứ 5:(đời thứ 15)
Ông PHẠM THẮC là con trai cả cụ PHẠM TRẮC, sinh khoảng năm 1930. Năm Ất Dậu (1945) lưu lạc lên Hòa Bình rồi ở lại làm ăn. Cuối cuộc khắng chiến chống Pháp, ông Thắc có về thăm quê. Sau đó ông bị máy bay thực dân Pháp ném bom sát hạt ở Hòa Bình. Theo bà PHẠM THỊ LỚN (Bà Kỷ) là chị ruột kể, ông có 4 con, 2 trai, 2 gái: PHẠM VĂN TRUNG, PHẠM VĂN THÀNH, PHẠM THỊ THỦY, PHẠM THỊ NGÂN. Năm 2002 bà Kỷ đã 82 tuổi, nhưng chưa liên lạc lại được với bà Thắc và các cháu.
Ông PHẠM MINH là con trai thứ cụ PHẠM TRẮC, sinh khoảng năm 1936. Năm Ất Dậu (1945), ông chuyển ra ở thôn An Thái, xã Lê Lợi cùng huyện. Nay gia đình ông vẫn làm ăn sinh sống ở đây. Ông Minh có 3 con trai: PHẠM THÔNG, PHẠM THÁI, PHẠM TRỊNH.
Ngành thứ 6: (đời thứ 15)
Ông PHẠM TRIỂN là con cả cụ PHẠM XỚN. Ông Triển mất năm 1945.
Ông PHẠM THAI là con thứ 2 cụ PHẠM XỚN. Ông Thai mất năm 1945.
Ông PHẠM BỘ là con trai thứ 3 cụ PHẠM XỚN. Ông Bộ mất năm 1945.
Ông PHẠM NGỌC LÂN là con thứ 4 cụ PHẠM XỚN. Ông Lân sinh năm Bính Tuất (1946), năm 2002 ông còn công tác ở Quảng Ninh.
Bà Lân là VŨ THỊ MÃO, con cụ Vũ Văn Vận cùng làng. Bà Lân sinh được 3 con trai: PHẠM VĂN LÂM, PHẠM THẾ HÙNG, PHẠM THẾ NGỌC.
Ông PHẠM VĂN MẠNH là con cả cụ PHẠM RẬT. Ông Mạnh sinh năm Mậu Thân (1968). Ông Mạnh lấy vợ là LÊ THỊ HẰNG, sinh năm 1968, quê quán Hà Nội. Ông bà Mạnh có 2 con trai: PHẠM VĂN HƯNG, PHẠM VĂN TIẾN DŨNG. Hiện nay gia đình làm ăn sinh sống ở Hà Nội
Ông PHẠM VĂN PHÚC là con thứ cụ PHẠM RẬT. Ông Phúc mất sớm.